SUY ĐOÁN SAI LẦM
Miệt Điệp cùng với 300 bộ tốt được tập hợp một cách vội vã xông ra ngoài, đón đầu bước tiến của kỵ binh đối phương. Tuy rằng biết được xông qua đó nhất định sẽ cửu tử nhất sinh, nhưng các binh sĩ bị Miệt Điệp làm khơi dậy sự đồng cảm đã không ngần ngại cái chết nữa. Họ chỉ muốn dùng thân xác máu thịt của mình ngăn cản đám kỵ binh chết tiệt này, cố gắng tranh thủ ít nhiều cơ hội sống sót cho đồng đội của mình.
Nhìn thấy một đội quân đang đón đầu đoàn kỵ binh xông tới, ánh mắt Lưu Lăng nghiêm túc hẳn. Hắn giơ tay lên dùng hoành đao chỉ về phía đội hình tấn công được hợp thành từ mấy trăm người này. 100 trọng kỵ ở sau hắn nhanh chóng điều chỉnh phương hướng theo hắn, nhắm ngay đội quân của Miệt Điệp mà xông đi.
Lưu lăng đi đầu, trông như mũi nhọn của một mũi tên, cùng với 100 trọng kỵ tạo thành một cây chùy phá giáp sắc nhọn nhất. Hai bên của Lưu Lăng là Triệu Nhị và Hoa Tam Lang. Có hai người họ bảo vệ hai bên cánh của mình, Lưu lăng chỉ việc xông lên trước mà không cần phải lo lắng. Khi cách đối phương không tới 10 bước, Lưu Lăng nhanh chóng đặt ngang hoành đao đẩy ra ngoài, sau đó gập người ghé sát vào lưng của Hồng Sư Tử.
Phập!
Chấn động từ trên cánh tay truyền tới khiến Lưu Lăng nhận thức rõ ràng, một kẻ địch đã bị hắn xẻ làm đôi. Ngay sau đó hoành đao của Triệu Nhị và Hoa Tam Lang cũng đã nhuốm máu. Cùng với tiếng xung kích của kỵ binh, trận hình tấn công được tập hợp một cách gấp gáp của đối phương nhanh chóng tan rã như mặt nước bị chia cắt vậy.
Lưu Lăng tìm đúng ngay kẻ đầu lĩnh. Từ giáp sắt chỉnh tề trên người đối phương có thể thấy được, đây là một tướng lĩnh cao cấp, cũng là hạt nhân và linh hồn của đội quân này. Chỉ cần giết y, đội quân ắt hẳn sẽ sụp đổ hoàn toàn. Lưu Lăng cúi người, vung đao, chém mạnh xuống người Miệt Điệp.
Miệt Điệp thân kinh bách chiến, xoay người né khỏi lưỡi đao của Lưu Lăng. Y vung đao phản kích, định đâm vào bụng chiến mã của Lưu Lăng. Chỉ là loan đao sắc bén trong tay Miệt Điệp chỉ xẹt ra một tia lửa trên trọng giáp được phủ trên mình Hồng Sư Tử, căn bản là không thể làm nó bị thương miếng nào. Hồng Sư Tử bị chọc giận hí lên một tiếng, nhanh chóng xoay người, hai chi sau mạnh mẽ đá mạnh vào trước ngực của Miệt Điệp.
Nại Chân Tuyệt xông tới sau lưng Miệt Điệp, đẩy Miệt Điệp té nhào xuống đất. Hai chi sau của Hồng Sư Tử đạp mạnh lên người y, rầm một tiếng lớn, cơ thể của Nại Chân Tuyệt bị Hồng Sư Tử đá văng đi. Nại Chân Tuyệt đụng phải hai lính Tây Hạ và té rầm xuống đất, gãy mất ít nhất là 5 xương sườn. Y chỉ thấy trước mắt mình bỗng tối sầm lại rồi mất đi tri giác. Ngay lập tức, chiến mã của trọng kỵ giẫm đạp lên người y mà đi qua. Một con, hai con, ba con... khi đội quân đi qua rồi, đâu còn nhìn thấy Nại Chân Tuyệt đâu nữa, y sớm đã biến thành một nhúm thịt nát rồi.
Miệt Điệp bị xô té cũng không thể thoát nạn. Y giãy giụa đứng dậy, thì một thanh hoành đao sắc nhọn đã lướt qua cổ y một cái, lập tức Miệt Điệp cảm thấy cơ thể mình bỗng nhẹ đi rất nhiều. Y cảm thấy mình như bay lên, càng bay càng cao. Ở trên cao, y thậm chí có thể thấy rõ hình quỷ Tu La được vẽ trên mặt giáp của trọng kỵ. Sau đó y cảm thấy mình như xoay một vòng trên không trung, rồi thấy một cái xác không đầu vẫn còn đứng trên mặt đất, máu nóng bốc hơi liên tục trào ra từ cái cổ. Cái xác đó thật là quen thuộc, chỉ là y vẫn chưa kịp nhìn kỹ, thì mí mắt ngày càng nặng trĩu đã nhắm lại, và không còn có thể mở ra nữa.
Đội hình tấn công do hơn 300 lính Tây Hạ hợp thành nhanh chóng bị phá hủy. Khi trọng kỵ đảo một vòng rồi quay lại, thì đội quân Tây Hạ này chỉ còn không tới 100 người, sau khi bị kỵ binh tấn công lần thứ 2, dưới mặt đất lại có thêm gần trăm cái xác. Sau đó Lưu Lăng hạ lệnh cho các kỵ binh phân tán xuất kích, mấy người hợp thành một đội tự do giết địch. 900 khinh kỵ đi cuối đội ngũ xông vào đại doanh cũng bắt đầu phát uy. Trọng kỵ đã giúp họ "dọn đường", khinh kỵ không gặp nguy hiểm nên giết người cũng không chậm tay hơn trọng kỵ.
Tu La Doanh được tạo thành từ 600 trọng kỵ và 900 khinh kỵ. Vì lúc xung trận, trọng kỵ ở phía trước nhất, nên quân Tây Hạ mới ngộ nhận rằng đây là một đội quân dụng mãnh toàn là trọng kỵ binh. 600 trọng kỵ, đã là cực hạn của số tiền chi tiêu mà Lưu Lăng có thể huy động, nhiền hơn nữa thì với tài lực của Binh Bộ hiện nay căn bản là không thể trả nổi. Vả lại, tuyển chọn 600 trọng kỵ binh cơ thể cường tráng cũng không phải là điều dễ dàng. Bộ trọng giáp đó nặng tới 30 kg lận!
So với trọng kỵ binh như cái máy nghiền thịt, khinh kỵ giết người nhanh gọn hơn nhiều. Họ đi lại trên chiến trường nhanh như gió, từng lính Tây Hạ một bị hoành đao của họ chém chết. Từ lúc xông vào đại doanh tới khi gần tiêu diệt hết phần lớn lính Tây Hạ cũng chỉ dùng có 40 phút. 4000 quân Tây Hạ chỉ còn không tới 1/3 sống sót, ngoài những người quỳ xuống đầu hàng ra, còn có hơn trăm người chạy lên núi.
Hoa Tam Lang cùng một đội khinh kỵ nhanh chóng đuổi theo, một trận mưa tên rồi một trận xung kích, số lính Tây Hạ leo núi đều bị giết sạch. Kỵ binh bắt đầu dọn dẹp chiến trường, xua những lính Tây Hạ đã thả vũ khí xuống tập trung lại với nhau.
- Vương gia, tính cả 2 đội kỵ binh ta giết giữa đường, tổng cộng giết địch 3300, bắt gần 700 tù nhân.
Hoa Tam Lang lau vệt máu trên mặt, bẩm báo con số này cho Lưu Lăng. Lần này họ mạo danh Lang Kỵ Khiết Đan vào bên trong Tây Hạ luyện binh, có thể nói là thu hoạch khá phong phú. Dọc đường giết sạch mấy đội tuần tra của quân biên phòng, cướp mấy ngôi làng có vẻ lớn để bổ sung lương thực và các thứ khác. Lần này lại thành công tiêu diệt cả một đại doanh của quân Tây Hạ, kết quả thắng lợi phong phú như thế thật khiến người ta hào hứng.
- Quân ta tổn thất bao nhiêu?
Lưu Lăng đẩy giáp che mặt lên, lộ ra khuôn mặt anh tuấn.
- Vừa thống kê xong, trọng kỵ binh tổn thất hơn 30 người, còn khoảng 70 người bị thương nhưng không ảnh hưởng chiến đấu; khinh kỵ tổn thất 19 người, bị thương thì là hơn trăm người, cũng không ảnh hưởng chiến đấu. Quân y tùy quân đang băng bó cho họ, giáp của ta dày, nên vết thương không lớn.
Lưu Lăng uhm một tiếng, thúc ngựa đi về phía tù binh.
Sở dĩ lần chiến đấu này có thể phát huy thắng lợi huy hoàng đến thế. Một là vì chiến thuật vận dụng tốt, chưa khai chiến đã làm tinh thần chiến đấu của quân Tây Hạ sụp đổ hoàn toàn; vả lại quân Tây Hạ vừa đói vừa rét lại vừa thức suốt đêm, vừa ngủ lại phải bò dậy thể lực không thể nào ứng phó được một trận chiến kịch liệt như thế. Thứ 2, trang bị của các kỵ binh trị giá gần như toàn bộ tài lực dốc ra của Thái Nguyên Phủ, so với Thiên Đức Quân của quân Tây Hạ mà nói hơn nhau quá nhiều. Vũ khí của lính Tây Hạ cơ hồ không thể phá vỡ phòng ngự của trọng kỵ, vả lại kỵ binh của họ đã bị quân Hán giết từng tốp một trên đường đi rồi. Dùng khinh giáp bộ binh đối kháng với trọng kỵ, xác suất thắng là không.
- Tù binh làm thế nào?
Hoa Tam Lang hỏi.
- Giết hết đi. Để lại mạng sống chính là để lại chứng cứ, Đại Hán chúng ta tạm thời chưa có thực lực khai chiến với Tây Hạ. Lần này tới đây là vì luyện binh, nếu vì thế mà gây ra rắc rối không cần thiết cho Đại Hán thì được không bằng mất.
Lưu Lăng điềm đạm trả lời.
Hắn dừng bước chân của Hồng Sư Tử lại, không đi tiếp nữa. Hắn biết rằng câu nói này của mình sẽ cướp đi sinh mạng của gần 700 tù binh không một tấc sắt trong tay. Lòng hắn không bình lặng như vẻ bề ngoài, thân là một người hiện đại xuyên việt tới thời đại này, thật ra hắn không hề thích ứng với máu tanh giết chóc, nhưng như thế không có nghĩa hắn là một con người nhu nhược không quả quyết. Hắn đồng cảm cho kết cục của những binh sĩ Tây Hạ đó, nhưng cũng sẽ không mềm lòng để mà rước họa vào thân.
Tù binh không có vũ khí cũng như con dê đang đợi làm thịt, đối mặt với kỵ binh được võ trang lên tới tận răng, có vũ khí trong tay họ cũng đã không cách nào phản kháng lại, huống hồ gì khi đã bỏ vũ khí xuống? Giết chết 700 người, không cần đến một chén trà. Máu từ trong thi thể làm tan chảy cả một bề mặt tuyết, máu và tuyết hòa trộn vào nhau, nhìn rợn cả người.
Thu dọn chiến trường trong thời gian ngắn nhất, xác định là không còn ai sống sót nữa, Lưu Lăng ra lệnh đem đủ lương thực đủ 3 ngày cho cả đội quân, rồi phóng hỏa thụi rụi cả đại doanh Thiên Đức Quân. Cả đội quân nhanh chóng rời khỏi, kỵ binh lại choàng lên người áo choàng màu trắng rất nhanh là đã hòa vào trong tuyết trắng, dường như chưa từng tới qua.
Sau 2 canh giờ, tốp quân do thám đầu tiên được phái đi thám thính tình hình của Lang Kỵ Khiết Đan quay trở về đại doanh. Nhưng xuất hiện trước mặt họ không phải khuôn mặt tươi cười của đồng đội, mà là ngọn lửa phừng phừng cháy cùng với xác đầy mặt đất. Cả doanh trại đều chìm trong biển lửa, đồng đội đều bị giết sạch, các binh sĩ Tây Hạ bị cảnh tượng trước mặt làm cho mất đi ý thức, gào khóc thét lên.
Hai ngày sau, tin tức Lang Kỵ Khiết Đan tập kích đại doanh Thiên Đức Quân được truyền tới đại doanh quân Tây Hạ đóng ở mạn bắc núi Kỳ Liên. Khi được tin, cái ly bạc chứa đầy trà sữa nóng hổi trong tay Trần Thâu Nhàn rơi bịch xuống đất. Sau khi hoàn hồn lại, ông ta ra ngoài phái một đội kỵ binh 5000 người đi về hướng của Thiên Đức Quân điều tra. Ông ta biết Lang Kỵ Khiết Đan không hề có ý định đột kích sau lưng mình, nếu người Khiết Đan thật sự có ý định này, bây giờ quân Tây Hạ đã nằm giữa hai gọng kìm rồi.
Từ đó có thể suy đoán, đội Lang Kỵ Khiết Đan này người không nhiều, mà vẫn có thể nhất cử tiêu diệt hết hơn 4000 người lưu thủ trong đại doanh Thiên Đức Quân. Cho dù đối phương là kỵ binh trọng giáp tinh nhuệ, nhân số cũng chỉ khoảng 1500 tới 2000, cùng lắm cũng tuyệt đối không quá 3000. 3000 kỵ binh trọng giáp, đã có đủ thực lực xung kích, nên sẽ không thể tới giờ mà vẫn không phát động công kích sau lưng quân Tây Hạ.
Sau khi phái 5000 kỵ binh đi rồi, Trần Thâu Nhàn mới dùng danh nghĩa của Nguyên Soái Hành Quân, triệu tập 5000 kỵ binh của Hắc Thủy Uy Phúc Quân đóng cách đó 300 dặm vẫn chưa tham chiến, truy tìm tung tích của Lang Kỵ Khiết Đan trong phạm vi 500 dặm.
Mỗi ngày đều có tin tức truyền về đại doanh, nhưng lại không có tin nào tốt cả.
10 ngàn kỵ binh tìm kiếm theo kiểu kéo lưới, nhưng căn bản là không thấy bóng của Lang Kỵ Khiết Đan ở đâu hết. Hôm nay chúng diệt mất một ngôi làng, ngày mai chúng giết sạch một cứ điểm đóng quân, thế mà lại không tài nào bắt được bóng của chúng. Vả lại quỹ đạo đi của đối phương mơ hồ hết sức, căn bản là vô tích khả tầm. Trần Thâu Nhàn sau khi tổng hợp lại tin tức mấy hôm nay nhận được, cuối cùng cũng rút ra kết luận. Đội Lang Kỵ Khiết Đan nhân số không nhiều này căn bản là chạy tới hậu phương của quân Tây Hạ để gây rối mà!
Chỉ là trú địa của Thiên Đức Quân cơ hồ như kề sát biên giới Hán Quốc, không lẽ người Khiết Đan mượn đường Hán Quốc qua đây? Xác suất chính xác của suy luận này không lớn. Bởi vì Trần Thâu Nhàn biết, Hán Quốc đã âm thầm ký hiệp ước với Đại Hạ, trong cuộc chiến giữa Đại Hạ và Liêu Quốc, Hán Quốc tuyệt đối sẽ không cho quân đội của Liêu Quốc tiến vào lãnh thổ Đại Hạ từ đó.
Nghĩ tới đây, Trần Thâu Nhàn chợt nảy ra ý nghĩ!
Đại Đồng! Cũng chính là Đại Đồng vừa được Hoàng đế Liêu Quốc Da Luật Hùng Cơ định làm Tây Kinh! Dạo trước Hán Quốc từng phái sứ giả tới thông báo chuyện này, nói là Hoàng đế Hán Quốc do sức ép của bên Liêu Quốc, không thể không dâng Đại Đồng cho Liêu Quốc! Nghĩ tới đây Trần Thâu Nhàn chợt ân hận tới não cả ruột, rõ ràng mình đã biết tin này, thế mà không đề ý tới nó!
Người Khiết Đan chết tiệt, không ngờ chúng lại xem trọng vị trí chiến lược của Đại Đồng mà ép Hán Quốc dâng cho chúng. Bọn trọng kỵ Khiết Đan nhất định là xuất phát từ Đại Đồng, nếu không cũng sẽ không xuất hiện ở trú địa Thiên Đức Quân! Tình huống bây giờ vô cùng nguy cấp. Nếu Liêu Quốc phái nhiều quân đội hơn nữa trấn giữ Đại Đồng, e là sẽ không chỉ quấy nhiễu hậu phương Đại Hạ thôi đâu. Nói không chừng sẽ thật sự có một đội quân hơn vạn người, thậm chí là đại quân 10 vạn người tấn công từ sau lưng của họ!
Nghĩ tới đây, Trần Thâu Nhàn toát cả mồ hôi lạnh. Ông ta lập tức phái người, dùng cách thức truyền tin khẩn cấp 800 dặm đưa tấu chương có ghi tin tức này và suy đoán của mình tới Hưng Khánh Phủ.
Bình Luận
Vui lòng đăng nhập để bình luận.
0 Thảo luận