Cài đặt tùy chỉnh

Tùy chỉnh
Mục lục
Đánh dấu

Đế Trụ

Chương 565: -

Ngày cập nhật : 2025-09-06 15:00:55
XƯA NAY CHƯA TỪNG CÓ
Mùng 1 tháng 9 Đại Trị nguyên niên Đại Hán, bốn vị Tiết độ sứ từ Tây Bộ, Bắc Bộ gấp rút trở về các nơi đóng quân của mình, mang theo mệnh lệnh của Hán Vương, bắt đầu chuẩn bị cho trận đại chiến sắp tới. Mùng 2 tháng 9, xa giá của Hán Vương rời khỏi Nam Xương đi tới Hàng Châu. Cuồng Đồ trọng giáp bộ binh phụng mệnh trở về Lạc Dương đóng quân, xa giá của Hán Vương lên đường dưới sự hộ vệ của một ngàn đề kỵ, ba nghìn quân Hán tinh giáp khinh kỵ binh, trùng trùng điệp điệp trên đường.
Mà lúc này, sau một tháng ở Tuyền Châu nghỉ ngơi chỉnh đốn, thủy quân của Đại Hán dưới sự lãnh đạo của Chiêu Tiên rời khỏi cảng khẩu Tuyền Châu, tiến lên vùng duyên hải. Theo sự bố trí của Lưu Lăng, Thủy quân sau hai tháng bắt đầu mùa đông đã đến vùng phụ cận Bột Hải Ngư Dương, sau đó từ Hà Lộ đi đến U Châu.
Sau khi từ Nam Xương xuất phát, xa giá của Lưu Lăng qua Kim Lăng cũng không hề trì hoãn, chỉ đi nửa tháng đã đến Hàng Châu.
Phong cảnh Hàng Châu so với đời sau mà nói, còn xinh đẹp tuyệt trần hơn rất nhiều. Nhưng Lưu Lăng lại không có tâm tư gì để nhìn ngắm cảnh sắc đẹp như tranh vẽ này. Nỗi nhớ nhà của hắn đau như dao cắt.
Vốn đã đồng ý với các nữ nhân của mình là sẽ ở bên cạnh các nàng một thời gian, kết quả là dọc đường đi việc lớn việc nhỏ không có lấy một ngày sống yên ổn. Ra ngoài du ngoạn chưa được vài ngày thì ngẫu nhiên tra được việc mật điệp của Tây Hạ, sau đó chạy về Tấn Châu xử lý. Sau khi ở cùng với các nàng không đến hai tháng thì lại chạy tới đảo Lưu Cầu. Trước sau ở đảo Lưu Cầu trễ nải hết ba tháng. Lúc rời Tấn Châu là mùa xuân mà hiện tại đã đến cuối thu rồi.
Đối với những người phụ nữ của mình Lưu Lăng có chút áy náy. Mang các nàng vứt lại ở Hàng Châu mấy tháng, một người làm trượng phu như hắn thật là không xứng đáng. Tiết độ sứ Hàng Châu Từ Thắng cho chỉnh đốn lại cung điện ban đầu của Ngô Việt Vương ở Hàng Châu, phái rất nhiều binh lính tinh nhuệ bảo hộ. Lư Ngọc Châu các nàng ở Hàng Châu phong cảnh đẹp như vẽ hơn hai tháng, nhưng một chút cũng không cảm thấy phiền chán. Từ lúc mùa xuân qua giữa hè, mấy tháng đẹp nhất này của Hàng Châu đã để lại trong lòng bọn họ ấn tượng sâu sắc.
Dù cho nơi nào cũng đều không đi, mỗi ngày chỉ ở Tây Hồ chèo thuyền thì cũng là một việc thanh thản dễ chịu.
Hoàng cung của Ngô Việt Vương ở Hàng Châu vốn cũng không cách Tây Hồ bao xa. Không hề nghi ngờ là mấy nữ nhân này yêu thích nơi này hơn cả Tấn Châu. Nếu so sánh mà nói thì Tấn Châu là đô thành tạm thời của Đại Hán, vốn chính là đất đóng quân của tướng quân Mông Hổ, một trong mười hai Vệ đại tướng quân của Đại Chu. Sau này, trải qua bao nhiêu năm xây dựng của quân Hán, Tấn Châu nghiễm nhiên trở thành một pháo đài quân sự. Tuy tường thành không cao lớn bằng Hưng Khánh phủ của Tây Hạ, nhưng luận về phòng ngự thì cũng không hề thua kém so với Hưng Khánh phủ. So với Hàng Châu thì Tấn Châu có chút trang nghiêm, tĩnh lặng. Nếu như nói Tấn Châu là một võ sĩ người đầy áo giáp, thì Hàng Châu kia chính là một một người con gái dịu dàng làm rung động lòng người. Ở nơi này thoải mái hơn nhiều so với ở Tấn Châu, cho nên Lư Ngọc Châu các nàng rất nhanh đã thích nơi này. Hơn hai tháng đã qua, nhưng thật ra lại cảm thấy vô cùng thoải mái, thích thú.
Lưu Lăng sau khi tới Hàng Châu, hết sức dành ra chút thời gian cùng các nàng du sơn ngoạn thủy. Bởi vì sau đó không lâu, Lưu Lăng còn phải đi về Bắc, cho nên trong khoảng thời gian này, Lưu Lăng phải tận lực bồi thường cho mấy người con gái này. Tiểu Lưu Nhàn đã tập tễnh học đi, thoạt nhìn giống như dáng điệu lúc la lúc lắc của một con vịt béo, đáng yêu vô cùng. Cứ như vậy, một mạch đã ở Hàng Châu hơn một tháng. Cuối tháng mười Đại Trị nguyên niên, Lưu Lăng từ biệt Lư Ngọc Châu các nàng rời khỏi Hàng Châu, đi Khai Phong. Tại Khai Phong suất lĩnh tập kết một trăm ngàn đại quân một đường tiến về phía tây bắc mà đi. Đến ngày hai mươi tháng mười một đã đến Lộ Châu.
Đại quân Lưu Lăng suất lĩnh mới đến Lộ Châu, tin khẩn của Giám sát viện đã đưa tới tin tức quân đội Khiết Đan xâm lược với quy mô lớn.
Ngày mùng 5 tháng 11, Đại vương Da Luật Sở Tài trấn thủ Nam Diện cung U Châu nước Liêu đích thân suất lĩnh gần bốn trăm ngàn đại quân dốc sức vượt sông Tang Can. Đại Hán Tiết độ sứ Ký Châu La Húc suất lĩnh mười hai vạn nhân mã nghênh địch ở bờ Nam sông Tang Can. Quân Hán ngăn chặn ở sông Tang Can làm cho đại quân của Khiết Đan khó lòng mà vượt qua được. Da Luật Sở Tài ra lệnh xây dựng cầu phao mạnh mẽ tấn công thế trận phòng ngự của quân Hán. Từ ngày đầu tiên va chạm với người Khiết Đan thì không hề có sự dò xét nào mà đã trực tiếp phát động tấn công mạnh mẽ. Chủ chiến trường là ở trên thủy vực khúc Cố An sông Tang Can.
Nội trong một tháng trước khi người Khiết Đan xuôi Nam, toàn bộ thuyền đánh cá trong lưu vực U Châu sông Tang Can, hầu như bị quân Hán đốt cháy hết không còn một mảnh. Cho nên, Da Luật Sở Tài vừa sai người thu gom thuyền bè vừa tập trung dân phu dựng cầu phao. Nhưng mà thế nước trong đoạn lưu vực sông Tang Can này tuy tương đối khá chậm nhưng để vượt qua mặt sông rộng hơn một dặm phải xây dựng vài cái cầu phao, đây nào phải là việc dễ dàng?
Quân Hán ở trên bờ Nam bố trí rất nhiều xe ném đá hỏa dược và xe liên phát hỏa nỏ, còn có mấy trăm xe nỏ lớn. Cầu phao thật vất vả mới xây dựng được hơn 100m, kết quả là bị xe ném đá hỏa dược của quân Hán oanh tạc một lượt thì hơn ngàn người dân phu dựng cầu phao đã tử thương bỏ mạng, rút lui chạy về phía bờ bắc, lại bị đội đốc chiến của người Khiết Đan bắn tên, người chết vô số kể. Trước cũng như sau đều không thể trốn chạy, dân phu đành phải cắn răng đứng ở dưới nước bắc cầu. Chỉ độ nửa canh giờ, nước sông Tang Can biến thành một dòng màu đỏ nhạt.
Lúc tin tức truyền đến Lộ Châu, quân đội người Khiết Đan còn chưa vượt qua được sông Tang Can, lại đúng ngay lúc rét đậm, tổn thất thảm thiết nhất vẫn là những dân phu ở giữa lòng sông. Tuy Da Luật Sở Tài phái người mang đến mấy ngàn bồn rượu mạnh chất đống ở sông để cho bọn dân phu uống rượu xua đi cái lạnh, nhưng nước sông lạnh đến thấu xương, một hai ngụm rượu mạnh sao có thể ngăn cản được? Ở hạ du sông Tang Can, mỗi ngày đều nhìn thấy vô số tử thi trôi nổi ở trên sông.
Hơn mười ngày, người Khiết Đan mới dựng cầu phao đến được giữa sông thì cũng đã phải trả hơn vạn dân phu và khoảng một ngàn binh lính. Nhưng binh lính Khiết Đan bám theo thuyền nhỏ đột kích vừa mới lên bờ đã bị quân Hán bao vây, đao kiếm dày đặc như rừng chém tới, la liệt trên mặt đất hơn mấy trăm thi thể không trọn vẹn. Ngược lại là sau khi đến buổi tối, thuyền quân Hán thừa dịp lúc ban đêm bất ngờ đánh tới, cũng không cần phải phá vỡ liên doanh của người Khiết Đan, chỉ là phóng hỏa đốt cháy cầu phao mà thôi.
Da Luật Sở Tài cũng không có cách gì vẹn toàn để qua sông. Cũng may nhiệm vụ của hắn cũng chỉ là kiềm chế quân Hán ở Ký Châu và Thương Châu. Mà số người bị chết đại đa số đều là dân phu mà hắn phái người cường bạo bắt tới. Có chết nhiều hơn nữa thì Da Luật Sở Tài cũng không đau lòng. Chỉ cần để quân Hán bị quấn chặt ở sông Tang Can thì sẽ không thể đi cứu viện Đại Châu. Nhiệm vụ của Da Luật Sở Tài coi như là hoàn thành. Hắn mỗi ngày đều chỉ là đốc thúc dân phu dựng cầu phao, trong lòng cũng không cảm thấy cấp bách gì cả. Cách thức phòng ngự của quân Hán chỉ có thể nói là vô cùng tận. Xe ném đá hóa dược khi ném rơi xuống nước thì uy lực đã giảm bớt đi ít nhiều. Đạn hỏa xuống nước cũng thành câm điếc, chỉ có nỏ là sắc bén vô cùng. Về sau, quân Hán ở thượng du thả thuyền va vào cầu phao. Cầu phao mà người Khiết Đan cực cực khổ khổ xây dựng không kìm nổi sự va chạm của hỏa thuyền, vài lần đã bị đốt sạch.
Hai bên giằng co ở sông Tang Can. Mười hai vạn quân Hán bày thế trận sẵn sàng đón địch.
Ngày mùng 8 tháng 11, Tiết độ sứ Thương Châu Dương Nghiệp suất lĩnh bốn vạn tinh binh thừa lúc đêm tối vượt qua hạ du sông Tang Can, lặng lẽ vòng qua cánh hông đại quân Khiết Đan, nhưng Dương Nghiệp không hề tùy tiện tiến công. Số lượng quân lính Khiết Đan hơn số nhân mã của y mười mấy lần, nếu tùy tiện tiến công, nói không chừng bốn vạn binh mã tinh nhuệ sẽ rơi hết xuống vũng bùn, khó có thể tự mình thoát khỏi, lại không có viện quân, nếu không trở về lại bờ Nam thì kết cục của nhánh quân đơn độc này chỉ có diệt vong.
Dương Nghiệp đang đợi, đợi thủy quân Đại Hán đến.
Ngày hai mươi tháng mười một Đại Trị nguyên niên, chính vào ngày Lưu Lăng tới Lộ Châu, bốn đạo binh mã thuộc Đại Đồng phủ Tây Kinh của Đại Liêu, tổng cộng năm trăm ngàn đại quân phân thành mười sáu lộ xuôi nam. Bốn lộ Hữu quân, mười hai vạn đại quân với Liêu đại tướng Hỏa Kiêu Linh Hồ làm chủ tướng tấn công Lam Châu, kịch liệt chiến đấu với quân đội của Tiết độ sứ Lam Châu Đại Hán Vương Bán Cân. Hai lộ tiền quân sáu vạn nhân mã do đại tướng Da Luật Phi Dương suất lĩnh tiến sát Đại Châu. Bốn lộ Tả quân với mười hai vạn đại quân do Đại tướng Đề Á Qua suất lĩnh giao chiến với Hán quân Tiết độ sứ Dịch Châu Lạc Phó. Thái Tử Da Luật Đức Quang trấn giữ Tây Kinh, nước Liêu dẫn tám lộ Trung quân tổng cộng hai mươi bốn vạn đại quân xuyên qua phòng tuyến Tiết độ sứ Đại Châu Độc Cô Nhuệ Chí tiến thẳng tới Thái Nguyên. Hai lộ Liêu Hậu quân, do Liêu đại tướng Tốc Ca suất lĩnh bọc hậu.
Dốc toàn bộ lực lượng binh mã Nam Kinh, Tây Kinh nước Liêu.
Ngày hai mươi tháng mười một, Tiết độ sứ Lam Châu Vương Bán Cân phái sứ giả đến thành Thiên Nga Tây Hạ, thỉnh cầu Ngôi Danh Nẵng Tiêu xuất binh khống chế đại quân của nước Liêu. Ngôi Danh Nẵng Tiêu tiếp kiến sứ giả xong, sau đó đồng ý chuẩn bị đầy đủ lương thảo, lập tức sẽ xuất binh lên phía bắc tấn công binh lực của Da Luật Đức Quang kiềm chế Tây Kinh nước Liêu. Nhưng mãi sau khi sứ giả nước Hán trở lại Lam Châu, đại quân Tây Hạ vẫn như cũ, lần lữa không có hành động gì cả.
Phương bắc, từ Lam Châu tới Bá Châu một dải mấy trăm dặm, chiến tranh bùng phát trở lại.
Sau khi Lưu Lăng suất lĩnh đại quân bổ sung đầy đủ lương thảo ở Lộ Châu thì tiếp tục chỉ huy quân đội đi về hướng bắc. Dùng hết thời gian mười ngày thì đến Thái Nguyên. Mà lúc này, hai mươi bốn vạn đại quân của Da Luật Đức Quang cũng đã xé rách phòng tuyến của quân Hán mà tiến vào. Đầu tiên là vây khốn Hãn Châu, sau mười ngày tiến công dữ dội nhưng không thể phá thành, Da Luật Đức Quang lưu lại hai vạn nhân mã tiếp tục tấn công Hãn Châu, sau đó xua quân xuôi nam. Lúc hơn hai mươi vạn đại quân quân Liêu mang theo bụi mù che khuất bầu trời xuất hiện ở phía bắc Thái Nguyên thì Lưu Lăng cũng vừa tới Thái Nguyên.
Tiết độ sứ Thái Nguyên Hoa Linh dưới trướng có sáu vạn nhân mã, thêm một trăm ngàn đại quân mà Lưu Lăng mang đến, so với quân Liêu của Da Luật Đức Quang mà nói thì vẫn lâm vào hoàn cảnh xấu như cũ. Nhưng quân Liêu lấy công làm chủ, quân Hán phòng ngự thì coi như lực lượng vẫn ngang nhau.
Đúng vào lúc Da Luật Đức Quang xuôi nam tiến vào lãnh thổ Đại Hán, Hoàng đế Liêu quốc Da Luật Hùng Cơ để tam đệ Da Luật Hạo đóng giữ Thượng Kinh. Hàn Tri Cổ làm Đại Thừa tướng phụ tá triều chính. Ông ta đích thân chọn hai trăm ngàn Cung Trướng quân xuôi nam, lấy đại tướng Tiêu Di làm tiên phong, trùng trùng điệp điệp tiến thẳng đến Thái Nguyên.
Cuộc chiến ác liệt lần này, Da Luật Hùng Cơ điều động trăm vạn đại quân, lập ra một cục diện chiến tuyến vài trăm dặm đối đầu với Đại Hán. Bên phía Đại Hán, Tiết độ sứ Thương Châu Dương Nghiệp, Tiết độ sứ Ký Châu La Húc với hai mươi lăm vạn nhân mã ngăn chặn bốn mươi vạn quân của U Châu lưu thủ Nam Diện cung Đại vương Da Luật Sở Tài ở sông Tang Can. Bên phía Lam Châu, Vương Bán Cân vừa lưu lại một trăm ngàn đại quân giám sát động tĩnh ở Thiên Nga thành của Tây Hạ, vừa triệu tập số nhân mã còn lại gần mười vạn ngăn chặn hai mươi vạn quân Liêu của Hỏa Kiêu Linh Hồ. Tiết độ sứ Dịch Châu Lạc Phó dùng tám vạn quân Hán ngăn chặn mười hai vạn quân Liêu của Liêu đại tướng Đề Á Qua. Tiết độ sứ Đại Châu Độc Cô Nhuệ Chí dùng sáu vạn binh lực đối đầu với sáu vạn quân Liêu của Da Luật Phi Dương.
Tổng binh lực quân Hán đưa vào gần bảy trăm ngàn. Hai bên gần hai triệu đại quân diễn ra một trận đại chiến xưa nay chưa từng có. Nếu như tính cả bốn mươi vạn đại quân ở thành Thiên Nga Tây Hạ nữa thì sự thắng thua của trận chiến này ắt sẽ ảnh hưởng đến thế thống trị của toàn thiên hạ.

Bình Luận

0 Thảo luận